Post by Admin on Dec 6, 2014 21:41:13 GMT 9.5
Thứ Năm Tuần Thánh là Ngày của các linh mục, vì thế các vị giáo hoàng, cách riêng là Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thường gửi thư cho các linh mục vào Thứ Năm Tuần Thánh. Góp phần vào ngày đặc biệt này, xin chọn hai thông tin để chúc mừng và cảm ơn các linh mục.
1. Thông tin thứ nhất là cuốn sách của Đức ông Stephen Rossetti, mang tựa đề Tại sao các linh mục hạnh phúc?Một nghiên cứu về sức khỏe tâm lý và thiêng liêng nơi các linh mục (Why Priests Are Happy? A Study of the Psychological and Spiritual Health of Priests, Ave Maria Press, 2011). Đức ông Stephen Rossetti là chuyên viên có tiếng về Tâm Lý, từng là viện trưởng Saint Luke Institute, nơi đào tạo và điều trị bệnh tâm thần cho linh mục, tu sĩ. Hiện nay ông là giáo sư mục vụ tại Đại học Công giáo Hoa Kỳ. Tác phẩm nói trên là kết quả của những công trình nghiên cứu tâm lý nơi các linh mục. Cụ thể là hai nghiên cứu được thực hiện năm 2004 và 2009. Nghiên cứu năm 2004 thăm dò ý kiến của 1.242 linh mục dòng, nghiên cứu năm 2009 thăm dò ý kiến của 2.782 linh mục thuộc 23 giáo phận trên khắp nước Mỹ.
Theo những khảo sát trên, 90 – 92,4% các linh mục cho biết họ rất hạnh phúc trong đời sống linh mục, và 80 – 88,9% cho biết tinh thần họ rất tốt. Nếu đối chiếu kết quả này với nghiên cứu về đời sống người dân Mỹ nói chung, sẽ thấy đây là kết quả hết sức tích cực. Theo nghiên cứu năm 2009, thăm dò ý kiến 5.000 gia đình người Mỹ, chỉ có 45% cho biết họ hài lòng với công việc của mình.
Cũng dựa trên những thăm dò ý kiến từ các linh mục, nghiên cứu trên cho thấy những điều chính yếu đem lại hạnh phúc cho đời sống linh mục là: (1) Cảm nhận sự bình an nội tâm; (2) Sống mối tương quan với Thiên Chúa; (3) Nhìn đời sống độc thân như tiếng gọi của Chúa; (4) Vâng phục giám mục và những vị có trách nhiệm; (5) Chuyên cần trong đời sống thiêng liêng như cầu nguyện, đọc sách nguyện, lần chuỗi Mân Côi, đọc sách thiêng liêng, lãnh bí tích Giải tội. Điều đáng nói ở đây là những công việc trên không phải là lời khuyên của Đức giáo hoàng hoặc các nhà đạo đức, nhưng là kinh nghiệm sống của đại đa số các linh mục cảm nhận đời linh mục là hạnh phúc.
2. Thông tin thứ hai là về cha Tomáš Halík, người Cộng hòa Séc, được trao giải thưởng Templeton năm 2014. Đây là giải thưởng danh giá, được thành lập từ năm 1972 và đặt tên theo người sáng lập là Sir John Templeton (1912–2008). Từ năm 1972 đến 2001, giải thưởng này mang tên Giải Templeton cho sự tiến bộ về tôn giáo; từ năm 2001 đến nay, giải có tên gọi làGiải Templeton dành cho sự tiến bộ trong nghiên cứu và những khám phá các thực tại thiêng liêng. Về mặt tài chính, giải thưởng này có trị giá lớn hơn giải Nobel vì người lãnh giải được trao tặng 1.100.000 euro, tuy nhiên giá trị tinh thần của giải mới đáng kể.
Lãnh giải Templeton, cha Tomáš Halík được xếp chung với những nhân vật danh tiếng trong lịch sử đương đại như Mẹ Têrêxa, Alexander Solzhenitsyn, Tổng giám mục Desmond Tutu, Đức Đalai-Lama, Billy Graham. Cha Tomáš được xem như khuôn mặt quốc tế với hơn 200 ấn phẩm và dịch ra nhiều thứ tiếng, được mời giảng dạy và thuyết trình về Triết học và Tâm lý tôn giáo tại nhiều nơi trên thế giới, và đã từng lãnh nhiều giải thưởng danh giá khác.
Điều lạ là vị linh mục nổi tiếng này lại sinh ra và lớn lên trong bầu khí vô thần. Cha ông là một sử gia về văn học và thuộc thành phần trí thức trong xã hội. Cha Tomáš kể lại rằng, “Cả một bầu khí nhân bản thế tục bao trùm. Chúng tôi cũng mừng lễ Giáng Sinh nhưng không bao giờ đến nhà thờ. Kinh Thánh cũng được nhắc đến trong giáo dục nhưng chỉ giống như các thần thoại Hi Lạp”. Thế nhưng khi lớn lên ông lại say mê văn hóa Công giáo, nhất là những tác phẩm Công giáo trong tiếng Anh: “Cha tôi là một sử gia về văn chương. Chính ông là người xuất bản tác phẩm của nhà văn Karel Čapek, Cộng hòa Séc, và Čapek lại rất gần với Chesterton. Cho nên trong tủ sách của cha tôi, có đầy đủ những sách của Chesterton”. Nhờ đó Tomáš đọc và say mê các tác phẩm của Chesterton, Graham Greene, John Henry Newman. Năm 18 tuổi, Tomáš nhận bí tích Rửa tội. Năm 1968, khi chính quyền Cộng sản cởi mở hơn, ông đã sang Anh học ngành Triết lý tôn giáo tại đại học Wales ở Bangor.
Ý nghĩ trở thành linh mục xuất hiện khi quân Xô Viết tấn công Tiệp Khắc. Mặc dù say mê văn hóa Anh, ông quyết định trở về Tiệp Khắc vì “Tôi phải làm điều gì đó lớn hơn cho cuộc đời mình. Tôi không thể chỉ sống cho nghề nghiệp, tiền của. Tôi phải hiến cuộc đời mình cho điều gì đó có giá trị cao cả hơn. Và tôi nghĩ đó là một trong những bước đầu tiên dẫn tôi đến quyết định làm linh mục”. Cha Tomáš đã học thần học và chịu chức “chui” năm 1978 ở Đông Đức.
Sau khi chính quyền Cộng sản sụp đổ, cha Tomáš trở thành bạn của vị tổng thống mới là Václav Havel, người từng tham gia nhóm trí thức của thân phụ cha Tomáš, và Václav Havel từng nhắc tới cha Tomáš như người có thể kế vị ông trong nhiệm vụ tổng thống. Tuy nhiên cha Tomáš không tham gia chính trị. Ông dành tất cả công sức cho giáo xứ của mình ở đại học và đã gặt hái những hoa trái phong phú trong việc Phúc-Âm-hóa. Trong những năm qua, cha đã rửa tội cho 1.000 người trẻ. Riêng trong năm 2014 này, ngài cho biết có 105 dự tòng và nhà thờ của ngài lúc nào cũng đầy người. Bí quyết của những thành công này, theo cha, là phải xây dựng một Giáo hội sống động với những chương trình thiêng liêng, tĩnh tâm, những khóa học cho người Công giáo cũng như ngoài Công giáo.
3. Tôi cố tình chọn một thông tin về các linh mục trong quốc gia đứng đầu của thế giới tư bản, và một hình ảnh linh mục từng sống trong chế độ Cộng sản. Để thấy dù sống ở đâu, linh mục cũng phải đối diện với những khó khăn và thử thách. Trong chế độ Cộng sản thì đã rõ, chỉ nguyên chuyện tu chui và chịu chức chui của cha Tomáš Halík đã nói lên tất cả. Còn trong chế độ tư bản, dù bên ngoài hết sức tự do nhưng các linh mục phải chịu một sức ép rất lớn của nền văn hóa thế tục, nền văn hóa đi ngược lại những giá trị Phúc Âm và sẵn sàng nuốt chửng những ai không đi theo nó.
Thế nhưng dù chủ nghĩa vô thần hay văn hóa thế tục, vẫn không thể dập tắt tiếng gọi thầm kín mà mãnh liệt của Thiên Chúa trong trái tim con người. Ơn gọi Kitô hữu và linh mục đến với chàng thanh niên Tomáš Halík ngay giữa những cấm cách và bắt bớ tôn giáo. Hơn 90% linh mục ở Mỹ khẳng định các ngài đang sống hạnh phúc, mặc cho các phương tiện truyền thông xã hội tìm mọi cách bêu xấu các linh mục.
Lý do là vì chọn lựa căn bản của các linh mục. Nói theo cha Tomáš Halík, các ngài không chọn làm linh mục vì nghề nghiệp hay tiền của, nhưng vì những giá trị cao cả hơn, những giá trị của Tin Mừng, Nước Trời, phẩm giá làm người. Khi một người đã chọn và dám sống cho những giá trị cao cả ấy, thì những khó khăn và thử thách bên ngoài lại càng nung nấu quyết tâm mạnh mẽ hơn, mang lại niềm vui và hạnh phúc sâu xa trong tâm hồn chứ không chỉ là niềm vui chóng qua và ồn ào bên ngoài.
Chọn lựa căn bản ấy được thốt lên một lần trong ngày chịu chức và phải làm mới lại mỗi ngày, vì thế bí quyết hạnh phúc chính là hằng ngày lớn lên trong tình bạn với Chúa Giêsu. Thứ Năm Tuần Thánh là thời điểm các linh mục nghe lại và ghi nhớ những lời thân tình của Thầy Giêsu: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ nhưng là bạn hữu, vì những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha của Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết” (Ga 15,15). Để ở lại trong tình yêu của Thầy, nhờ đó “niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 15,11).
Thiên Triệu (Theo Vietvatican.net)
1. Thông tin thứ nhất là cuốn sách của Đức ông Stephen Rossetti, mang tựa đề Tại sao các linh mục hạnh phúc?Một nghiên cứu về sức khỏe tâm lý và thiêng liêng nơi các linh mục (Why Priests Are Happy? A Study of the Psychological and Spiritual Health of Priests, Ave Maria Press, 2011). Đức ông Stephen Rossetti là chuyên viên có tiếng về Tâm Lý, từng là viện trưởng Saint Luke Institute, nơi đào tạo và điều trị bệnh tâm thần cho linh mục, tu sĩ. Hiện nay ông là giáo sư mục vụ tại Đại học Công giáo Hoa Kỳ. Tác phẩm nói trên là kết quả của những công trình nghiên cứu tâm lý nơi các linh mục. Cụ thể là hai nghiên cứu được thực hiện năm 2004 và 2009. Nghiên cứu năm 2004 thăm dò ý kiến của 1.242 linh mục dòng, nghiên cứu năm 2009 thăm dò ý kiến của 2.782 linh mục thuộc 23 giáo phận trên khắp nước Mỹ.
Theo những khảo sát trên, 90 – 92,4% các linh mục cho biết họ rất hạnh phúc trong đời sống linh mục, và 80 – 88,9% cho biết tinh thần họ rất tốt. Nếu đối chiếu kết quả này với nghiên cứu về đời sống người dân Mỹ nói chung, sẽ thấy đây là kết quả hết sức tích cực. Theo nghiên cứu năm 2009, thăm dò ý kiến 5.000 gia đình người Mỹ, chỉ có 45% cho biết họ hài lòng với công việc của mình.
Cũng dựa trên những thăm dò ý kiến từ các linh mục, nghiên cứu trên cho thấy những điều chính yếu đem lại hạnh phúc cho đời sống linh mục là: (1) Cảm nhận sự bình an nội tâm; (2) Sống mối tương quan với Thiên Chúa; (3) Nhìn đời sống độc thân như tiếng gọi của Chúa; (4) Vâng phục giám mục và những vị có trách nhiệm; (5) Chuyên cần trong đời sống thiêng liêng như cầu nguyện, đọc sách nguyện, lần chuỗi Mân Côi, đọc sách thiêng liêng, lãnh bí tích Giải tội. Điều đáng nói ở đây là những công việc trên không phải là lời khuyên của Đức giáo hoàng hoặc các nhà đạo đức, nhưng là kinh nghiệm sống của đại đa số các linh mục cảm nhận đời linh mục là hạnh phúc.
2. Thông tin thứ hai là về cha Tomáš Halík, người Cộng hòa Séc, được trao giải thưởng Templeton năm 2014. Đây là giải thưởng danh giá, được thành lập từ năm 1972 và đặt tên theo người sáng lập là Sir John Templeton (1912–2008). Từ năm 1972 đến 2001, giải thưởng này mang tên Giải Templeton cho sự tiến bộ về tôn giáo; từ năm 2001 đến nay, giải có tên gọi làGiải Templeton dành cho sự tiến bộ trong nghiên cứu và những khám phá các thực tại thiêng liêng. Về mặt tài chính, giải thưởng này có trị giá lớn hơn giải Nobel vì người lãnh giải được trao tặng 1.100.000 euro, tuy nhiên giá trị tinh thần của giải mới đáng kể.
Lãnh giải Templeton, cha Tomáš Halík được xếp chung với những nhân vật danh tiếng trong lịch sử đương đại như Mẹ Têrêxa, Alexander Solzhenitsyn, Tổng giám mục Desmond Tutu, Đức Đalai-Lama, Billy Graham. Cha Tomáš được xem như khuôn mặt quốc tế với hơn 200 ấn phẩm và dịch ra nhiều thứ tiếng, được mời giảng dạy và thuyết trình về Triết học và Tâm lý tôn giáo tại nhiều nơi trên thế giới, và đã từng lãnh nhiều giải thưởng danh giá khác.
Điều lạ là vị linh mục nổi tiếng này lại sinh ra và lớn lên trong bầu khí vô thần. Cha ông là một sử gia về văn học và thuộc thành phần trí thức trong xã hội. Cha Tomáš kể lại rằng, “Cả một bầu khí nhân bản thế tục bao trùm. Chúng tôi cũng mừng lễ Giáng Sinh nhưng không bao giờ đến nhà thờ. Kinh Thánh cũng được nhắc đến trong giáo dục nhưng chỉ giống như các thần thoại Hi Lạp”. Thế nhưng khi lớn lên ông lại say mê văn hóa Công giáo, nhất là những tác phẩm Công giáo trong tiếng Anh: “Cha tôi là một sử gia về văn chương. Chính ông là người xuất bản tác phẩm của nhà văn Karel Čapek, Cộng hòa Séc, và Čapek lại rất gần với Chesterton. Cho nên trong tủ sách của cha tôi, có đầy đủ những sách của Chesterton”. Nhờ đó Tomáš đọc và say mê các tác phẩm của Chesterton, Graham Greene, John Henry Newman. Năm 18 tuổi, Tomáš nhận bí tích Rửa tội. Năm 1968, khi chính quyền Cộng sản cởi mở hơn, ông đã sang Anh học ngành Triết lý tôn giáo tại đại học Wales ở Bangor.
Ý nghĩ trở thành linh mục xuất hiện khi quân Xô Viết tấn công Tiệp Khắc. Mặc dù say mê văn hóa Anh, ông quyết định trở về Tiệp Khắc vì “Tôi phải làm điều gì đó lớn hơn cho cuộc đời mình. Tôi không thể chỉ sống cho nghề nghiệp, tiền của. Tôi phải hiến cuộc đời mình cho điều gì đó có giá trị cao cả hơn. Và tôi nghĩ đó là một trong những bước đầu tiên dẫn tôi đến quyết định làm linh mục”. Cha Tomáš đã học thần học và chịu chức “chui” năm 1978 ở Đông Đức.
Sau khi chính quyền Cộng sản sụp đổ, cha Tomáš trở thành bạn của vị tổng thống mới là Václav Havel, người từng tham gia nhóm trí thức của thân phụ cha Tomáš, và Václav Havel từng nhắc tới cha Tomáš như người có thể kế vị ông trong nhiệm vụ tổng thống. Tuy nhiên cha Tomáš không tham gia chính trị. Ông dành tất cả công sức cho giáo xứ của mình ở đại học và đã gặt hái những hoa trái phong phú trong việc Phúc-Âm-hóa. Trong những năm qua, cha đã rửa tội cho 1.000 người trẻ. Riêng trong năm 2014 này, ngài cho biết có 105 dự tòng và nhà thờ của ngài lúc nào cũng đầy người. Bí quyết của những thành công này, theo cha, là phải xây dựng một Giáo hội sống động với những chương trình thiêng liêng, tĩnh tâm, những khóa học cho người Công giáo cũng như ngoài Công giáo.
3. Tôi cố tình chọn một thông tin về các linh mục trong quốc gia đứng đầu của thế giới tư bản, và một hình ảnh linh mục từng sống trong chế độ Cộng sản. Để thấy dù sống ở đâu, linh mục cũng phải đối diện với những khó khăn và thử thách. Trong chế độ Cộng sản thì đã rõ, chỉ nguyên chuyện tu chui và chịu chức chui của cha Tomáš Halík đã nói lên tất cả. Còn trong chế độ tư bản, dù bên ngoài hết sức tự do nhưng các linh mục phải chịu một sức ép rất lớn của nền văn hóa thế tục, nền văn hóa đi ngược lại những giá trị Phúc Âm và sẵn sàng nuốt chửng những ai không đi theo nó.
Thế nhưng dù chủ nghĩa vô thần hay văn hóa thế tục, vẫn không thể dập tắt tiếng gọi thầm kín mà mãnh liệt của Thiên Chúa trong trái tim con người. Ơn gọi Kitô hữu và linh mục đến với chàng thanh niên Tomáš Halík ngay giữa những cấm cách và bắt bớ tôn giáo. Hơn 90% linh mục ở Mỹ khẳng định các ngài đang sống hạnh phúc, mặc cho các phương tiện truyền thông xã hội tìm mọi cách bêu xấu các linh mục.
Lý do là vì chọn lựa căn bản của các linh mục. Nói theo cha Tomáš Halík, các ngài không chọn làm linh mục vì nghề nghiệp hay tiền của, nhưng vì những giá trị cao cả hơn, những giá trị của Tin Mừng, Nước Trời, phẩm giá làm người. Khi một người đã chọn và dám sống cho những giá trị cao cả ấy, thì những khó khăn và thử thách bên ngoài lại càng nung nấu quyết tâm mạnh mẽ hơn, mang lại niềm vui và hạnh phúc sâu xa trong tâm hồn chứ không chỉ là niềm vui chóng qua và ồn ào bên ngoài.
Chọn lựa căn bản ấy được thốt lên một lần trong ngày chịu chức và phải làm mới lại mỗi ngày, vì thế bí quyết hạnh phúc chính là hằng ngày lớn lên trong tình bạn với Chúa Giêsu. Thứ Năm Tuần Thánh là thời điểm các linh mục nghe lại và ghi nhớ những lời thân tình của Thầy Giêsu: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ nhưng là bạn hữu, vì những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha của Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết” (Ga 15,15). Để ở lại trong tình yêu của Thầy, nhờ đó “niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 15,11).
Thiên Triệu (Theo Vietvatican.net)